Nhà Thờ Đốc Sơ

Hương Sơ, TP. Huế, Thừa Thiên Huế

Nhà Thờ Đốc Sơ

Hương Sơ, TP. Huế, Thừa Thiên Huế

Giờ lễ

  • Chúa nhật: 06:00, 16:30
  • Ngày thường: 05:30

Thông tin giáo xứ

  • Giáo phận Huế
  • Giáo hạt TP. Huế
  • Năm thành lập
  • Bổn mạng
  • Điện thoại

Thông tin giờ lễ nếu không chính xác hoặc có thay đổi rất mong Quý cộng đoàn đóng góp tại form bên dưới (đi tới form)

Thông tin giáo xứ

I. THỜI XA XƯA (1674-1801)

1. Pháp trường tử đạo tại làng Đốc Sơ: 1665.

Ba vị tử đạo đã bị Hiền Vương tra khảo và đem tới Đốc Sơ xử tử vào cuối 1/1665.

Đó là: Matthêô Ven, Đamasô Dao, và Marta Phước.

Tháng 4/1667 cha Ant. Hainques MEP. đã đến cải táng và gởi một phần hài cốt về cho Đức Cha Pr. Lambert de la Motte.

Có mấy tín hữu Phường Đúc đã đặt tay trên Phúc Âm mà thề với cha Ant.Hainques là họ đã được bà Marta Phước, tử đạo, ban ơn lạ chữa lành bệnh. (Cf. A.Launay, Les documents historiques de la Cochinchine religieuse, tom.I, pp1-78; Sacerdos Indosinensis, 1927).

Thật tiếc chúng ta không rõ địa điểm xử tử 3 vị tử đạo đích xác ở đâu trên đất làng Đốc Sơ. Nên biết: “Pháp trường tử đạo tại làng Đốc Sơ” đời Chúa Hiền Vương khác với “Pháp trường tử đạo tại Cống Chém” cũng ở làng Đốc Sơ dưới đời Minh Mạng và Tự Đức.

Chín năm sau cuộc tử đạo trên, (1665-1674), người Đốc Sơ bắt đầu nhận ánh sáng đức tin. Đúng như lời Tertulianô đã nói: “Máu tử đạo là hạt giống sinh con nhà có đạo”.

2. Thành lập giáo xứ năm 1674.

Theo báo cáo 3/1685 gởi về Tòa Thánh của cha Marinô Labbé MEP. (Sau nầy trở thành giám mục phó địa phận Đàng Trong (1704-), thì họ Đốc Sơ đã được thành lập năm 1674. (Cf. A.Launay, op. cit., tom.I, pp. 326-378). Lúc bấy giờ, trên toàn tỉnh Thừa Thiên, chỉ có cha Manuêlê Bổn truyền giáo (từ 1673-). Vậy có lẽ chính cha Bổn đã thành lập giáo xứ.

Cha Bổn người Huế, nguyên là thầy giảng, được gởi đi học tại chủng viện thánh Giuse của Hội Thừa Sai Balê tại Juthia (Thái Lan), thụ phong linh mục năm 1672. Cha cũng là vị linh mục tiên khởi xứ Huế.

Năm 1675 Đức Cha Pr. Lambert de la Motte đến Kim Long, ban phép Thêm Sức cho 4.500 người tập trung về từ 3 tỉnh Bình Trị Thiên, trong số đó, có các tân tòng Đốc Sơ.

Đây là lần đầu tiên bóng một vị Giám Mục xuất hiện tại Huế.

Rồi đến 1693, Đức Cha Phanxicô Perez đến Đốc Sơ ban phép Thêm Sức. Và đây là lần đầu một vị Giám Mục đến thăm Đốc Sơ.

3. Hai sở vườn nhà thờ cũ.

– Sở vườn thứ nhất (1674-1862): nằm phía trong làng, cách nhà thờ hiện tại 800m. Ngày nay, chủ mới của vườn là người lương, nhưng tin rằng trên đất thiêng không thể ở được, chỉ để làm vườn. Có lẽ đây là vườn nhà thờ đầu tiên lúc họ Đốc Sơ mới thành lập. Nhà thờ bằng tranh tre, đơn giản như nhà thường dân. Lúc an bình thì cất lên làm nơi thờ phượng, lúc bắt đạo thì hạ xuống chất đống. Họ Đốc Sơ đã làm vậy biết bao lần khi “tĩnh” khi “động”! Và cũng chính vì để ẩn nấp cho an toàn khỏi mắt vua quan mà nhà thờ được chọn ở địa điểm phía sâu trong làng.

Nhà thờ cũ tồn tại cho tới khi Tự Đức hạ sắc lệnh tha đạo năm 1862, tức là qua 188 năm giáo dân Đốc Sơ sống trong cảnh trốn tránh. Biết bao kỷ niệm, di tích lịch sử của họ Đốc Sơ gắn liền với mảnh đất quí giá ấy, mà ngày nay không còn hồ sơ lưu lại!

– Sở vườn thứ hai (1862-1897): nằm phía ngoài làng, nhưng cách mặt tiền 100m. Chủ mới hiện nay là ông Anrê Nguyễn văn Vọng, nhưng đã vào Nha Trang, cho người cháu ở. Nhà kế cận là của ông Anrê Đặng văn Đoàn, cựu chủ tịch hội đồng giáo xứ Đốc Sơ.

– Sở vườn thứ ba như hiện có: do cha JB.Bùi quang Lợi mua năm 1899.

4. Họ Đốc Sơ thuộc quyền Dòng Tên (1699-1773: 74 năm):

Sau khi cha Manuêlê Bổn mất, các họ đạo phía Bắc Thừa Thiên như Kim Long, Đốc Sơ, Dương Sơn,v.v… được giao cho các cha Dòng Tên.

Từ 1700-1725, Chúa Minh Vương lại bắt đạo dữ dội.

Nhưng 1725-1750, dưới đời Chúa Ninh Vương và đầu đời Chúa Vỏ Vương, các giáo đoàn kinh đô được bằng an và phát triển rất mạnh.

Riêng Đốc Sơ, theo báo cáo của cha Graff Sj. gởi cho đức khâm sứ Tòa Thánh vào năm 1747 (tức 73 năm sau thành lập) thì số giáo dân vào quãng 100 người.

Năm 1750, Vỏ Vương hạ lệnh cấm đạo. Một số giáo dân lại bị bắt giam, đày ải, “thảo tượng”: đi bứt cỏ nuôi voi nhà nước, bị mang xiềng có kèm miếng đồng khắc chữ “tả đạo”.

5. Họ Đốc Sơ thời nội chiến (1774-1801):

Dòng Tên bị giải tán 1773, Đốc Sơ cũng như các họ đạo khác được giao lại cho các cha thừa sai Balê và các linh mục bản xứ.

Cha Marinô Phiên, rồi cha JB. Nhơn, coi sóc họ Đốc Sơ và các họ phía Bắc Thừa Thiên.

Từ 1773-1801, xảy ra nội chiến giữa 3 nhà Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn. Dân tình khốn khổ. Việc cấm đạo dữ dội, nhất là từ năm 1798 do vua Cảnh Thịnh. Chính năm đó, Đức Mẹ hiện ra tại Lavang…

Nhìn lại lịch sử thăng trầm của giáo xứ Đốc Sơ trong thời xa xưa, qua 227 năm (1674-1801) từ đời Hiền Vương tới đầu đời Gia Long, trải qua bao cơn bách hại, thế mà đức tin của tổ tiên ông bà vẫn tồn tại trên đất làng Đốc Sơ, thật là do ơn lạ mà Chúa dã ban cho.

II. THỜI CẬN ĐẠI (1801-1862)

1.Họ Đốc Sơ sống 25 năm bằng an (1801-1825):

a. Dưới đời Gia Long (1801-1820) việc giữ đạo tạm được bằng an, nhưng dân chúng cực khổ, sưu cao thuế nặng, xây kinh thành, lăng Gia Long.

b. Minh Mạng lên ngôi (1820). Ông là con của bà Thuận Thiên Cao, vợ lẻ Gia Long, người làng An Hòa, gần Đốc Sơ. Minh Mạng ghét đạo, nhưng trong 5 năm đầu, ông để yên.

2. Trải qua 8 năm trong lo sợ và đề phòng (1825-1833):

Chiêu bài “tà đạo” được Minh Mạng đem ra áp dụng. Việc truyền giáo bị ngăn cản…

3. Qua 29 năm cấm đạo (1833-1862):

Trong 8 năm đầu bắt đạo công khai, Minh Mạng chỉ mới nhắm vào linh mục, các quan, binh sĩ, và những ai bị tố cáo; còn nhân dân được khuyên nên bỏ đạo, chứ chưa bắt vội.

Vì thế, với tinh thần đoàn kết lương giáo vẫn có tại Đốc Sơ, giáo dân được người lương che chở an toàn, không bị tố cáo như các nơi khác.

Một số giáo dân Đốc Sơ, Kim Long, An Vân đã đến gần cửa An Hòa vào một sáng sớm trong tháng 11/1833, để tiễn đưa cố Phan đi lưu đày ra Lao Bảo (Quảng Trị).

Giáo dân Đốc Sơ cũng thỉnh thoảng thăm viếng, tiếp tế lương thực cho các tù nhân Đức Tin tại nhà giam gần cửa An Hòa.

Ngày 28/11/1835, cha JB Bùi văn Ngôn cải trang tới Đốc Sơ để giúp cha Anrê Trần văn Trông bị xử chém tại chợ An Hòa.

Ngày 10/12/1840, cha Ngôn cũng tới Đốc Sơ để giải tội cho thánh Ximong Phan đắc Hòa bị chém tại pháp trường Cống Chém ở làng Đốc Sơ.

Vua Thiệu Trị lên ngôi và cai trị 7 năm (1841-1847). Tình hình tôn giáo tạm yên.

Đến thời Tự Đức (1848-), sắc dụ cấm đạo lần 1 được ban bố, nhưng thi hành nhẹ nhàng.

Qua năm 1850, Tòa Thánh thành lập Giáo Phận Huế. Rồi Tự Đức ra dụ cấm đạo lần 2 vào năm 1851. Đức Cha chính Phan (Pellerin) mạo hiểm đi kinh lược, kín đáo đến Đốc Sơ vào mùa hè 1853 ban phép Thêm Sức tại tư gia, vì nhà thờ đã bị triệt hạ.

Đến tháng 12, Đức Cha phó Bình (Sohier) lại đến thăm Đốc Sơ.

Từ 1855-1862, Tự Đức quyết tâm tiêu diệt đạo Công Giáo, nên đã hạ 12 sắc dụ cấm đạo.

Ngày 22/5/1857, quan thái bộc Micae Hồ đình Hy bị xử vì đạo tại chợ An Hòa. Có cha Anrê Nguyễn văn Lành đi với mấy giáo dân Đốc Sơ cách kín đáo, đến để giải tội cho ông.

Ngày 6/10/1858, ông Cai Phanxicô Nguyễn văn Trung cũng bị xử tại chợ An Hòa. Cha Anrê Nguyễn ngọc Thoại tới giúp với sự hiện diện của vài bổn đạo Đốc Sơ.

Ngày 24/10/1860, tới lượt quan Giuse Lê đăng Thị bị điệu tới chợ An Hòa để xử, có cha Martinho Nguyễn văn Thanh và mấy ông Đốc Sơ lẫn lộn trong dân chúng, đến để giải tội.

Vào cuối tháng 10/1859, Tự Đức ra lệnh bắt giam chức việc các họ đạo tại Huế. Các vị Trùm, Câu, Biện, Giáp đầy các nhà tù, tra khảo dọa nạt, nhưng rất ít người chối đạo. Đồng thời, áp dụng luật “phân sáp” giam giữ tất cả mọi người công giáo lại, thích 2 chữ “tả đạo” trên má, dọa nạt tra tấn…

Ngày 5/6/1862, hòa ước Tự Do Hành Đạo được ký kết tại Sàigòn giữa 3 nước Việt-Pháp-Tây Ban Nha.

Tại Huế, ngày 17/7/1862, Tự Đức hạ dụ tha đạo. Giáo dân ai về nhà nấy sau 11 tháng 8 ngày bị giam giữ theo lệnh “phân sáp”.

III. TRANG SỬ NGÀY NAY (1862-1999)

1. Đốc Sơ được tái thiết (1862-1868):

Giáo dân về lo sửa lại nhà cửa ruộng vườn. Các linh mục tới thăm viếng an ủi, ban phép bí tích. Khoảng năm 1867, Đức Cha Bình (Sohier) cho mỗi họ đạo một số tiền để làm nhà thờ. Và Đốc sơ đã dựng nhà thờ mới trên sở vườn thứ hai.

2. Số hồ sơ của các chiến sĩ đức tin bị đốt 1885.

Năm 1863, Đức Cha Bình ra thông cáo cho các họ đạo ghi chép hồ sơ các vị chiến sĩ Đức Tin để nạp cho Tòa Giám Mục. Đốc Sơ cũng đã thi hành lệnh nầy. Hồ sơ được giao cho cố chính Đăng (Danzelzer).

Năm 1877, cố chính ra ở Di Loan (Quảng Trị) và mang theo tất cả.

Năm 1885, quân Văn Thân nổi lên giết đạo, cố Chính chạy qua tị nạn bên chủng viện An Ninh. Văn Thân đốt nhà xứ Di Loan và tất cả hồ sơ tử đạo. Vì thế có người thắc mắc: “Tại sao Đốc Sơ đạo lâu đời lại ở gần kinh đô, vua quan bắt đạo mà không có một vị chiến sĩ Đức Tin nào cả?”

“Xin thưa: Có! Nhưng vì hồ sơ bị đốt như nói trên”.

Và cố Bernard Thới viết: “Một số đông chiến sĩ công giáo bị giam vì đạo tại ngục thất khám đường (gần cửa An Hòa) trong đó có anh PHILIPPHÊ ĐÍNH người họ BÀU ĐÔNG (TRIỀU SƠN TRUNG).”

3. Chưa có cha sở thường trú 32 năm (1867-1899):

Từ 1867, Đức Cha chia địa sở và đặt cha sở. Riêng họ Đốc Sơ không có cha sở tại chỗ, nhưng trực thuộc cha sở các nơi như sau:

a) Họ Đốc Sơ thuộc địa sở An Vân (1867-1871): cha Luca Tín người Mỹ Lương (Quảng Bình).

b) Họ Đốc Sơ thuộc địa sở Kim Long (1871-1899): cố chính Đăng và các vị kế tiếp…

Trong thời gian nầy có Lm Nguyễn Hoằng tạm trú tại Đốc Sơ để qua kinh thành làm việc cho Nhà Nước. – Vua Tự Đức ban cho ngài chức Hồng Lô Tự Khanh kiêm Tham Biện Cơ Mật Viện.

– Vua Đồng Khánh bổ nhiệm cha làm việc tại Lục Bộ. Đến năm 1886 cha về hưu, rời Đốc Sơ để về quê quán làng Phương Tân, tỉnh Hà Tĩnh, Giáo Phận Vinh.

Từ năm 1890 trở đi, có các cha đến tạm nghỉ hoặc tạm trú tại Đốc Sơ:

– 1890-1891: cố Lộ (Yves-Maria Rault).

– 1891-1893: cha Tôma Nguyễn khắc Phú, người Phủ Việt (QB) phó Kim Long. trú Đốc Sơ.

-1893-1894: cố Quí (Auguste Gilbert).

4. Các cha quản xứ hoặc phụ trách (kiêm nhiệm) Đốc Sơ từ 100 năm nay: 1899-1999.

1) Lm JB. BÙI QUANG LỢI: 1899-1906.

Cha sở tiên khởi. Người gốc Nam Tây (Bái Trời, QT). Cha Lợi thấy sở vườn nhà thờ thứ 2 không được rộng rãi và quang ánh, nên đã vận động họ Đốc Sơ mua lô đất nhà thờ thứ 3 như hiện có.

Trận bão lớn năm Thìn 1904 tàn phá nhà thờ rất nặng.

Năm 1906, cha Lợi bắt đầu khởi công xây lại nhà thờ thì được lệnh đổi lên An Vân. Ngài rất giỏi Việt văn và Hán văn, đã soạn hoặc dịch nhiều kinh mà ngày nay giáo dân vẫn thường đọc: Ngợi khen ông thánh Giuse. Bảy sự buồn cùng bảy sự vui ông thánh Giuse. Thân lạy ông thánh Giuse,…

2) Cố BỔN (Jean Louis BONNAND): 1906-1919.

Đức Cha Lộc đã xin được nhiều tiền để yểm trợ cho các nhà thờ. Cố Bổn tiếp tục công tác xây cất nhà thờ cao ráo và kiên cố như hiện thấy, nhưng chỉ có 5 gian. Cột kèo, đòn tay to tròn bằng gỗ lim. Bàn Thờ và Nhà Tạm chạm trổ công phu, 2 hàng lồng đèn màu hiện vẫn còn. Họ nhờ cậy Cố nhiều, đặc biệt là vấn đề người công giáo từ nơi khác đến nhập cư (Ngày xưa vấn đề “chính-ngụ” rất phức tạp).

Cố Bổn chết đột ngột sau thánh lễ chủ nhật 30/11/1919. An táng trong nhà thờ. Thọ 65 tuổi. 39 năm LM. Quản xứ Đốc Sơ 13 năm. Cải táng ra trước sân nhà xứ ngày 13/3/1994.

3) Lm Matthêô NGUYỄN VĂN THĂNG: 1919-1933.

Nguyên quán Sáo Bùn (Tam Tòa), quản xứ Đốc Sơ 14 năm. RIP!

4) Lm Phaolô NGUYỄN VĂN MẦU: 1934-1949.

Nguyên quán Ngọc Hồ. Sinh năm1891. Thụ phong LM: 18/12/1920. Quản xứ Đốc Sơ gần 15 năm. Tử : 8/5/1949. An táng trước nhà xứ Đốc Sơ.

5) Lm Giuse NGÔ VĂN TRỌNG: 1949-1953.

Nguyên quán Kim Long. Trùng tu lại nhà thờ và nối dài 2 căn cung thánh và phòng lễ.

Xây trường tiểu học. Tổ chức lại các đoàn thể. Quản xứ Đốc Sơ 4 năm. Hiện ở USA.

6) Lm Phaolô NGUYỄN VĂN HÓA: 1953-1955.

Nguyên quán Tân Thủy. Quản xứ Đốc Sơ gần 3 năm.

7) Lm Phêrô TỐNG VĂN HỘ: 1955-1964.

Nguyên quán Phường Đúc. Quản xứ Đốc Sơ 9 năm.

8) Lm Giacôbê NGUYỄN VĂN PHƯỢNG: 1965-1971.

Nguyên quán Tam Tòa. Tết Mậu Thân 1968, bom đạn dữ dội. Người chết nhà sập. Nhà thờ, trường học, nhà các nữ tu bị hư hại một phần. Nhà xứ (làm từ đời cố Bổn) tan tành bình địa! Cha Phượng và giáo dân chạy tản mát tị nạn về phía Tri Lễ, Bàu Đông. Về lại Đốc Sơ, cha phải đi ở đậu nhà giáo dân, rồi về ở phòng lễ. Cha Phượng xây lại nhà xứ mới như hiện thấy. Sửa lại trường học.

Năm 1971 ngài rời Đốc Sơ qua ở Nhà Dục Anh, Kim Long. RIP!

9) Lm Đôminicô NGUYỄN VĂN VĨNH: 1971-1974.

Nguyên quán Bùi Chu. Kỷ niệm để lại là một máy điện rất mạnh và hiện còn tốt . Nay Ngài làm quản xứ Nam Hưng, Hóc Môn, TP.HCM.

10) Lm Phêrô LÊ ĐÌNH KHÔI: 1974-1975.

Nguyên quán Đại Lộc (QT). Kỷ niệm: tượng Đức Mẹ do Trung tướng Trần văn Trung (con cũa cụ Ông Trần Văn Nghi và cụ Bà Nguyễn Thị Phiên người họ Đốc Sơ) dâng cúng đặt trước sân nhà thờ. Sau biến cố Giải Phóng 3/1975, gia đình di tản qua Pháp.

11) Lm Phêrô HUỲNH ĐÌNH KINH: 1975-1977.

Nguyên quán Phủ Cam. Sau Giải Phóng 1975, cha Kinh về Đốc Sơ hơn 1 năm thì bệnh nặng, chở qua bệnh viện, về Nhà Chung và mất. RIP!

12) Lm Batôlômêô NGUYỄN QUANG ANH: 1977-1978.

Nguyên quán Lê Xá (QT). Giáo sư Đại chủng viện, kiêm phụ trách họ Đốc Sơ lần 1.

12 Bis) Lm Bat. NGUYỄN QUANG ANH: 1984-1987.

Quản xứ Tây Linh, kiêm phụ trách Đốc Sơ lần 2. Cha Anh đã phải rất nhọc nhằn khi vừa coi sóc giáo xứ lớn Tây Linh, vừa phụ trách thêm 2 giáo xứ có 2 cha bị đi cải tạo! Hiện là giáo sư ĐCV.

13) Lm Tađêô NGUYỄN VĂN LÝ: 1978-1981.

Nguyên quán Ba Ngoạt (QT). Năm 1981, Đức TGM Phil. Nguyễn Kim Điền cho cha Lý nghỉ làm lễ và mục vụ. Giao trách nhiệm cho cha Lê thanh Hoàng.

Đến năm 1983, thì cha Lý bị bắt đi cải tạo. Hiện Lm Lý dang bị giam giữ tại nhà tù Basao lần thứ 5 (2012 –?)

14) Lm Gioakim LÊ THANH HOÀNG: 1981-1984.

Quản xứ Tây Lộc, kiêm phụ trách Đốc Sơ. Kỷ niệm: đổi chuông bể của Đốc Sơ, lấy chuông tây nhỏ cho Họ Triều Sơn Trung. Xin chuông tây của nhà nguyện Viện Dục Anh cho Đốc Sơ. Đi cải tạo. Hiện là quản xứ Dương Sơn.

15) Lm Anrê NGUYỄN VĂN TRÚC: 1987-1994.

Nguyên quán Sáo Cát (Quảng Bình). Phục hồi kỷ luật và nề nếp. Sửa trường học. Xây giếng bên nhà xứ. Nâng cấp đường làng, xây Cống Hồ Sen và Cống Nhà Thờ. Tổ chức lễ mừng 315 năm lãnh nhận đức tin (1674-1989) và xây nhà bia kỷ niệm trước đài Đức Mẹ. Dời mộ cố Bổn từ trong nhà thờ ra nằm cạnh bên mộ cha Mầu trước nhà xứ. Quản xứ 7 năm. Nghỉ bệnh tại Nhà Chung.

16) Lm Anrê NGUYỄN VĂN PHÚC: từ 5/11/1994 –

5. Các linh mục chánh quán Đốc Sơ:

1) Lm Pl. NGUYỄN VĂN LỤC (1876-1911): Con ông Giuse Nguyễn văn Tý và bà Anna Nguyễn thị Lụy. Học trò cố Soái (Chaiget). Thụ phong LM: 1904. Phó xứ Diêm Tụ. Hưu tại Đại Chủng Viện. Tử: 1911. Thọ 35 tuổi. 7 năm LM. An táng tại Đại Chủng Viện.

2) Lm Gk. NGUYỄN VĂN DỤ (1877-1938): Con ông Phaolô Nguyễn văn Thi và bà Uxula Thị Tương. Học trò cố Soái. LM: 1906. Nhiệm sở : An Lộng, Linh Thủy, Thanh Tân. Mất và chôn tại Thanh Tân 1938. Thọ 61 tuổi. 35 năm LM. Cải táng về nghĩa địa TP. Thiên Thai.

3) Lm Batôl. NGUYỄN VĂN ĐỨC (1896-1954): Con ông Anrê Nguyễn văn Niên và bà Anna Thị Sen. Học trò cha Dụ. LM: 1926. Nhiệm sở: An Lạc, Xuân Hòa, Dòng Thánh Tâm, An Do Tây. Mất và chôn tại An Do 1954. Thọ 58 tuổi. 28 năm LM.

4) Lm Gk. NGUYỄN VĂN KHUYÊN (1904-1934): Con ông Phaolô Nguyễn văn Linh và bà Anê Thị Yến. Học trò cha Lược. LM: 1934. Nhiệm sở: Linh Yên. Mất tại bệnh viện. Chôn tại Đại Chủng Viện. Thọ 30 tuổi. Làm LM gần 4 tháng.

5) Lm FX. NGUYỄN VÂN NAM: Con ông Anrê Nguyễn văn Thân và bà Maria Huỳnh thị Vang. Học trò cha Trọng. Sinh năm 1937. LM: 1969. Nhiệm sở: Quán Ngang, Bình Tuy (Phan Thiết), Gio Linh (PT). Hiện là chánh xứ Cù Mi (Phan Thiết).

6) Lm FX. NGUYỄN NGỌC THU: sinh năm 1941. LM: 1970. Con Ông Phaolô Nguyễn Toàn và Bà Marta Trần thị Kiểu. Hiện là quản hạt Thủ Thiêm, TP.HCM.

7) Lm Jos. PHAN TẤN THÀNH O.P.: Con ông Batôlômêô Phan tấn Hứa. Sinh: 1946. LM: 1972. Hiện là giáo sư thần học tại Đại Học Angelicum Rôma.

8) Lm Louis NGUYỄN HẬU CSsR.: Con Ô. Anrê Nguyễn văn Ai và bà Maria Nguyễn thị Cúc, cháu ông câu Batôlômêô Nguyễn văn Khóa và bà Nguyễn thị Kính (Phủ Cam). Bà con với cha Dụ, Cha Đức. LM: 1975. Hiện ở PHÁP.

9) Lm Gk. TRẦN TỬ HẢI: Sinh năm 1947. LM: 1975. Con Ông Đôminicô Trần tử Đồng và Bà Agatha Trần thị Minh. Sinh: 1947. LM: 1975. Hiện là quản xứ Phú Quý, Phú Nhuận, TP.HCM. ĐT: 08.990.0479

10) Lm Giuse NGUYỄN VĂN LINH CM (Lazariste): Con ông Nguyễn văn Thoại, là chắt nội ông câu Khóa, gọi cha Hậu bằng chú lại. Sinh: 1944. LM: 1976. Hiện là quản xứ Vinh Sơn, Dalat.

11) Đức ông Pl. PHAN VĂN HIỀN: Người họ Tri Lễ. LM: 1981. Hiện làm việc tại RÔMA.

12) Lm Pl. ĐẶNG NGỌC DUY: Con ông Đặng văn Đàng. Sinh: 1957. LM: 1996. Hiện là phó xứ Dục Mỹ (Nha Trang).

13) Lm Antôn MZ. PHAN TỰ CƯỜNG O.P.(Dòng Đa Minh): em ruột cha Phan tấn Thành. Sinh:1950. LM: 1995. Hiện là Bề Trên tu viện Martin, Hố Nai, Biên Hòa. ĐT: 061.881.318 E-mail: tcuongop@bdvn.vnd.net

14) Lm Matthew NGUYỄN VĂN CÔNG: Sinh: 1962. Con ông Nguyễn văn Chánh và bà Phan thị Dung. Bà con với các cha Lục, Dụ, Đức, Hậu, Linh. LM: 2000. Hiện làm LM quản hạt ở CANADA.

15) Lm Gk. NGUYỄN ĐỨC MỪNG CSsR: Con ông Giuse Nguyễn đức Thoại (Bút) và bà Marta Nguyễn thị Đương. Sinh: 15/12/1950. Linh mục: 27/11/1993. Anh của thầy Batôlômêô Nguyễn đức Thịnh DCCT, và nừ tu Thu Hà. Hiện phục vụ tại Lâm Đồng, Gp Dalat.

16) Lm Gs NGÔ VĂN ĐÀO CSsR: Con ông Gs. Ngô văn Thanh và Bà Ursula Nguyễn thị Hai. Sinh: 1936. LM:…… Hiện phục vụ tại USA.

17) Lm Pr. LÊ VĂN KHÁNH: Con ông Bênêđictô Lê Hiền và bà Anna Trần thị Vinh.Sinh:… LM: 2001. Giáo phận Dalat.

18) Batôlômêô NGUYỄN ĐỨC THỊNH CSsR: Con ông Giuse Nguyễn đức Thoại và bà Matta Nguyễn thị Đương. Em cha Mừng DCCT. Sinh:… LM: 2001.

6. Tu sĩ nam nữ chánh quán đốc sơ:

DANH SÁCH CÁC TU SĨ NGUYÊN QUÁN: GIÁO XỨ ĐỐC SƠ

Stt Tên thánh Họ và Tên Cha Mẹ Năm sinh Năm

Khấn Dòng/ Tên Dòng Tu/ Nơi làm việc hiện nay

01 Michel Nguyễn Ngọc Châu Phaolô Nguyễn Văn Quang Matta Nguyễn Thị Dụ 26.04.1921 Dòng Biển Đức Đan Viện Thiên An Huế

HT 005 / 054.82663502

02. Blandine Nguyễn Thị Miên Phaolô Nguyễn Văn Quang Matta Nguyễn Thị Dụ 06.04.1929 05.08.1950 Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm 4C/1 Khiết Tâm,Tam Bình, Thủ Đức Tp.HCM / 08.8963294

03 Benedicte Diệu Khánh Pag. Dòng Phaolô thành Chartres 25 Yên Bái, Đànẵng

04 Phaolô Nguyễn Văn An Phaolô Nguyễn Đãng Dẫn Anna Phan Thị Dinh Dòng La San USA

05 Phaolô Phan Tấn Thịnh Batôlômêô Phan Tấn Hứa Anna Hồ Thị Lý 22.01.1952 01.11.1990 Miền Dòng Giuse HT 52 – 10 Võ Thị Sáu, Nha Trang / 058.881100

06 Anna Phan Tấn Minh Trị Batôlômêô Phan Tấn Hứa Anna Hồ Thị Lý 03.07.1953 31.05.1978 Dòng Nữ Vương Hoà Bình 254 Xô Viết Nghệ Tĩnh Ban Mê Thuột / 050.855561

07 Nguyễn thị Thu Hà (em của 2 Cha DCCT: Mừng + Thịnh) Giuse Nguyễn Đức Thoại Matta Nguyễn Thị Đương Giáo xứ Đồng Xoài

08 Maria Đặng Thị Mộng Hương Phaolô Đặng Văn Nhật Maria Nguyễn Thị Lựu 08.06.1960 14.09.1993 Dòng MTG Quy Nhơn 302/9 đường 26.03, Gò Vấp, Tp. HCM / 08.8947265

09 Phaolô Trần Văn Dũng Giacôbê Trần Thưởng M.Madalêna Lê Thị Tu 12.10.1971 15.08.1995 Dòng Don Bosco Giáo xứ Liên Khương, Huyện Đức Trọng, Lâm Đồng / 063.843223

10 Nguyễn thị Khánh Ly Nguyễn văn Trúc Nguyễn thị Hồng #28 tuổi MTG Chợ Quán

11 Nguyễn thị Bích Sơn Nguyễn văn Trúc Nguyễn thị Hồng # 24 tuổi Dòng Phaolô

12 Anne-Marie Lê Thị Ngọc Oanh François Xavier Lê Văn Trí Marthe Phạm Thị Hải 03.09.1954 05.07.1978 Dòng MTG Dalat 115 Lê Lợi – Lộc Thanh – Bảo Lộc, Lâm Đồng / 063.864730

B. HIỆN TRẠNG GIÁO XỨ:

1.Địa chỉ: Nhà thờ Đốc Sơ, xã Hương Sơ, Thành phố Huế.  054. 530115 / E-mail: nvphuc@dng.vnn.vn

2.Địa thế: Giáo xứ ĐỐC SƠ thuộc xã Hương Sơ, nằm về hướng Tây Bắc thành phố. Phía Đông giáp Hương Vinh, Tây giáp Triều Sơn Tây, Nam giáp cầu An Hòa, Bắc giáp Hương Toàn.

Xã Hương Sơ gồm có 9 làng: An Hòa, An Vân Hạ, Đốc Sơ, Triều Tây, Đức Bưu, Dương Xuân, Tri Lễ, Lệ Khê, và Mỹ Lại . Trước kia. xã Hương Sơ thuộc huyện Hương Trà, nay sáp nhập vào thành phố Huế.

a) Nhà Thờ Đốc Sơ (14m x 27m): tọa lạc tại xóm ngoài của làng Đốc Sơ: Ngã Ba An Hòa vào cuối Hẻm số 1 (dài 300m) đường Đặng Tất. Giáo dân Đốc Sơ xa gần đã tích cực tu sửa lại trường học, nhà nữ tu (bỏ sở từ 1975), nhà thờ, nhà từ, nhà xứ,… Nhà thờ có chuông kiểu VN (như chuông chùa) đúc đời Thành Thái.

b) Nhà Thờ Tri Lễ (07m x 20m) tọa lạc trên đất làng Tri Lễ. Từ cầu Bạch Yến mới xây (sau Cửa Hậu của Thành Nội) thẳng về chợ và Cống Ba Cửa khoảng 2 cs, qua cầu, rẽ trái 100m. Nhà thờ đã được trùng tu 1997.

c) Họ Triều Sơn Trung còn gọi là Bàu Đông , ở giữa ruộng trên phần đất của xã Hương-Toàn, cách nhà thờ Đốc Sơ chừng vài cây số về hướng Bắc.

3. Bổn mạng nhà thờ Đốc Sơ: THÁNH GIUSE THỢ. Kính ngày 1/5

4. Bổn mạng nhà thờ Tri Lễ: LỄ TRUYỀN TIN. Kính ngày 25/3

5. Số giáo dân: 729

5b. Số giáo dân qua các thời kỳ: Năm 1939: 502

Năm 1964: 449

Năm 1975: 442

Năm 1995: 574

Năm 2000: 729

6. Quản xứ: Lm Anrê NGUYỄN VĂN PHÚC

7. Sinh hoạt :

– Giờ Lễ Chúa Nhật : 6g00 ; 16g30

– Giờ lễ ngày thường: 5g30

– Các lớp giáo lý ngày Chúa Nhật: 07g30 – 09g30 2 lớp thanh niên

14g30 – 16g30: 5 lớp thiếu niên

– Xã hội từ thiện:…

C. TRƯỜNG HỌC GIÁO XỨ TRƯỚC ĐÂY VÀ HIỆN NAY:

– Trước 1975: Trường tiểu học được thành lập từ 1950, do các nữ tu điều khiển và dạy dỗ.

– Sau 4/1975: Chính quyền mượn để làm trường học, rồi hợp tác xã chủi đót, nhà trọ cho công nhân, làm nơi hội họp mỗi ngày Chủ Nhật… cho tới khi cơ sở bị trận bão lớn năm 1985 tàn phá hư hại nặng nề không thể dùng được nữa! Giáo xứ tu sửa lại để dạy giáo lý, các lớp bổ túc, hội trường, văn phòng,…

Đốc Sơ, 01/12/2002

Lm Anrê Mguyễn Văn Phúc

Viết theo tài liệu của Lm Stanislas Nguyễn văn Ngọc, có biên tập lại.

Giờ Lễ Nhà Thờ Giáo Xứ Đốc Sơ

Ngày thường: 05:30
Chúa nhật: 06:00 – 16:30

Nguồn: tonggiaophanhue.net

Liên hệ

Điều chỉnh giờ lễ, thông tin giáo xứ hoặc liên hệ vui lòng điền vào thông tin bên dưới

    LỜI KÊU GỌI

    Giờ lễ và các thông tin có thể bị thay đổi hoặc sai hoặc thiếu do đó rất mong quý Tu Sĩ, Anh Chị gởi thông tin về email giothanhle.net@gmail.com để được bồ sung, sữa chửa kịp thời
    ĐẶC BIỆT: Rất mong Anh/Chị góp sức bổ sung giờ lễ các nhà thờ còn thiếu giúp cho giothanhle.net ngày càng hoàn thiện hơn. Hiện tại mình rất cần các bạn trong các giáo phận, giáo hạt làm Admin trang web để bổ sung, quản lý các nhà thờ còn thiếu, bạn nào nhiệt tình mail mình biết nhé. Trân trọng!

    Nhà thờ cùng khu vực

    Compare listings

    So sánh
    lienkhuong
    • lienkhuong